Một lần Vương Doãn bí mật qui tụ các trung thần bàn mưu lập kế giải cứu quân vương, Tào Tháo hiến kế và tự mình lãnh trách nhiệm ám toán Đổng Trác. Nhưng sự việc bất thành, Tào Tháo bị truy nã, nên xuất thành bỏ chạy về hướng nam. Chạy đến Tiêu Quận, đi qua huyện Trung Mậu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện là Trần Cung. Nhưng ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cùng với Tào Tháo đeo thanh kiếm, cưỡi ngựa, trốn đi.
Ði được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối, nên ghé vào nhà Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha Tào Tháo mà nghỉ đêm. Bá Sa đón hai người vào, bảo người nhà giết lợn, còn mình thì đi mua rượu về đãi khách. Tháo và Cung nghỉ ngơi trong phòng, bỗng nghe có tiếng mài dao, sinh lòng hoài nghi rằng họ định hại mình, nên hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy; giết một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp đem chọc tiết. Cung giật mình nói: Ta đa nghi quá, giết nhầm phải người tử tế rồi. Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai mươi dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai bình rượu, tay xách một nắm rau quả. Tháo cứ tế ngựa đi và rút kiếm ra chém Bá Sa ngã xuống chết. Cung cả sợ hỏi Tháo: Lúc nãy lầm đã đành, bây giờ sao lại còn đang tay như thế? Tháo nói: Bá Sa về nhà, thấy nhiều người nhà chết, tất nhiên sẽ báo quan đuổi thì ta bị vạ ngay. Cung nói: Biết rằng mình lầm rồi, lại còn cố Ý giết người nữa thực là đại bất nghĩa! Tháo nói: Thà ta phụ người, chứ không để người phụ ta !
[…] Rồi thời gian sau, đất nước tạm chia ba theo thế chân vạc, Bắc Hán có Tào Tháo, Đông Ngô có Tôn Quyền, Tây Thục có Lưu Bị. Trong một lần Lưu đánh với Tào, thất thế chạy ngang qua Kinh Châu, được Lưu Biểu đón vào và định nhường đất Kinh châu. Khổng Minh hiến kế cho Lưu Bị đường đường chính chính lấy Kinh Châu làm bệ phóng vững chắc để xây dựng cơ đồ. Nhưng Lưu Bị nói: Ở đời, thà ta bị người phụ, chứ không bao giờ ta phụ người !
“Mến Chúa trên hết mọi sự” là giới răn thứ nhất và quan trọng nhất của người Kitô hữu. “Yêu người như mình ta vậy” là lời kinh chúng ta thuộc lòng. Thế nhưng yêu người là yêu ai? Hay nói cách khác: trong thế giới có hàng tỷ người này thì ai là người mà tôi phải yêu mến?
Đó là vấn nạn không chỉ được đặt ra hôm nay nhưng đã được đặt ra từ thời Chúa Giêsu. Thật vậy, Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca thuật lại việc một vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: “Ai là anh em của tôi?”.
Khi hỏi như vậy, hẳn người thông luật này đứng trên quan điểm của người Do thái. Vì người Do thái quan niệm: anh em tôi phải là người bà con ruột thịt hay ít là đồng bào Do thái với tôi. Còn người ngoại quốc, nhất là người ngoại giáo là quân tội lỗi, là hạng người ô uế, không nên gần gũi, tiếp xúc.
Để trả lời cho câu hỏi người luật sĩ đặt ra, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu và mời gọi vị luật sĩ - và mọi Kitô hữu chúng ta ngày nay - rút ra kết luận cho bản thân mình.

















0 nhận xét:
Đăng nhận xét