Ads 468x60px

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

Thứ Bảy tuần II mùa Phục sinh


Một ghềnh đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi xây tổ đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh vật chung quanh.
Thấm thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn con và nói
- Đã đến lúc các con phải tập bay.
- Bay như thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi:
Chim mẹ trả lời:
- Các con phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình rơi xuống và vỗ cánh để gió nâng các con lên.
Ba chú chim con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng vâng lời mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay trở về chui vào tổ tìm sự an toàn.
Ngày hôm sau, chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:
- Đã đến lúc các con phải tập bay.
Một chú chim con sợ hãi nói:
- Vực thẳm sâu quá!
Con khác tiếp lời:
- Chúng con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.
Và con thứ ba thú nhận:
- Chúng con sợ quá, mẹ ơi!
Nhưng chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:
- Hãy đi ra bờ vực thẳm!
Thấy đàn con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:
- Hãy đi ra mép ghềnh đá, đừng sợ!
Theo lệnh mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng dùng mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Đến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm và tung cánh. Được gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu trời cao rộng.
* Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ thuở xưa: “Thầy đây đừng sợ”. Hôm nay Chúa cũng muốn nói với chúng ta như thế.

Lời Chúa: 
  Ga 6,16-21
16 Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. 17 Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. 18 Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. 19 Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. 20 Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". 21 Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.

Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

Thứ Năm sau Chúa nhật II Phục sinh

“Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời”.
Nếu có người hỏi tôi: Tại sao bạn tin Chúa?
Hồi nhỏ tôi đã trả lời: Vì ba mẹ bảo tôi phải tin; nếu tin Chúa, tôi sẽ được vào Thiên Đàng đời sau.
Còn bây giờ, tôi đáp: Tôi tin, và tôi biết Chúa yêu tôi. Tôi tin để được Thiên Đàng ngay đời này.
Lạy Chúa, ước gì trong mọi lúc, con luôn biết đáp lại: “Con tin vì con yêu Chúa”. 

Lời Chúa: 
 Ga 3, 31-36
31Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; 32Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 33Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.
34Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.

Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

Thứ Tư sau Chúa nhật II Phục Sinh

Chú bé cùng với bố đang đi trên một con đường mòn trong đêm tối dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ, bóng đêm trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi! Chiếc đèn này chỉ chiếu sáng chút xíu trên đường, con sợ quá”. Bố đáp: “Con ạ! Anh sáng này hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi đến cuối đường”.
Đời sống Kitô hữu nhiều lúc cũng đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi, và ta cũng chỉ cần bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sánh đó đủ soi cho ta đi đến cuối đường đời. 
Lạy Chúa, xin soi sáng và mở rộng lòng con, để con nhận ra đâu là sự sáng đích thực của Chúa và can đản theo Ngài. 

Lời Chúa: 
 Ga 3,16-21
16Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
19Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

25/04 Thánh Marcô, tác giả sách Tin Mừng

Mác-cô theo người bà con tên là Bác-nê-bê và vị Tông Đồ Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất ; nhưng khi họ tới Per-gê miền Pam-phi-li-a, thì Mác-cô bỏ về Giêrusalem (Cv 13,13), có lẽ vì mất can đảm.
Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai, Phao-lô không muốn đem Mác-cô theo ; nhưng sau đó chúng ta lại thấy Mác-cô ở bên Phao-lô (Plm 24 ; Cl 4,10 ; 2 Tm 4,11). Rồi tiếp theo Mác-cô lại tháp tùng Phê-rô ở Rô-ma. Nhưng kỷ niệm của thánh Phê-rô tạo thành khung cho Phúc Âm thánh Mác-cô. Chắc chắn quyển Phúc Âm này được viết trước khi thành Giêrusalem bị tàn phá (năm 70 sau cn).
Fritz Kreisler (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hoà nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đờn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý : “Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng”. Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự xúc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên “Kreisler ơi ! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó”.
Lạy Chúa, con cũng không có quyền giữ cho mình tất cả hồng ân Người đã ban tặng cho con. Tất cả đã được đón nhận thì tất cả cũng phải được sẻ chia. 

Lời Chúa: 
 Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.

Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Chúa nhật II Phục sinh

Ngày nọ, nhà của một vị tu sĩ bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội leo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng vì mạng sống thầy chỉ còn “ngàn cân treo sợi tóc”. Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
- Nhảy đi, thầy nhảy xuống đi!
Thầy Nasruddin nói:
- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề!
- Ôi, thầy ơi! Không phải trò đùa đâu, thầy nhảy mau đi!
Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố:
- Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.


Bài Tin Mừng này khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.


Điều thứ nhất khiến tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt ra: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin”. Mặc dù xem ra Đức Giêsu không tán thành thái độ của Tôma, nhưng trong thâm tâm tôi, tôi vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã hội, tôi vẫn giữ thái độ cẩn thận ấy. Chẳng hạn khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những lời quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay một món hàng mà tôi chưa thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật lại là một chuyện: “động trời” chưa bao giờ xảy ra: một người chết sống lại! Đòi hỏi phải kiểm nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.


Nhưng khi tôi tán thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán thành với Đức Giêsu? Ngài đòi tôi “không thấy mà tin”. Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp lý?


Suy nghĩ thêm, tôi mới hiểu rằng: tương quan giữa những người yêu thương nhau, không nên cái gì cũng đối xử với nhau bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ cha mẹ nói với đứa con rằng “Con đừng thọc tay vào ổ điện nhé, điện giật chết đấy!” Nếu đứa con không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ ra sao? Nó phải tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu thương nó. Vì Đức Giêsu yêu tôi nên Ngài có quyền đòi hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp tình.



Lời Chúa: 
 Ga 20,19-31
19Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." 24Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." 26Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." 27Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " 29Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "30Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
(Nguồn: Ủy Ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Thứ Bảy Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Tôi là Maria Mađêlêna, mọi người sỉ vả, chê bai tôi, không ai dám đụng đến tôi vì sợ bị ô uế và lây nhiễm tội lỗi. Mọi cặp mắt khinh miệt đều hướng về tôi. vậy mà khi gặp Ngài, Ngài nhìn tôi với đôi mắt trìu mến và đầy tình thương. Tôi không thể nào quên đôi mắt ấy, đôi mắt kéo tôi ra khỏi vũng lầy tội lỗi. Từ giây phút đó, tôi bước đi theo Ngài, cùng với Ngài rảo qua khắp làng mạc, thành phố để rao giảng Tin Mừng.
Rồi Ngài bị bắt, bị đem giết. Tôi bối rối sợ hãi và tuyệt vọng. Các môn đệ của Ngài cũng đã bỏ chạy. Nhưng Ngài vẫn chưa được yên cả đến xác Ngài cũng bị đánh cắp khi tôi ra viếng mồ sau khi Ngài chết vài ngày. Ôi cuộc đời của Ngài như thế này sao? Vậy là chấm dứt, chấm dứt tất cả!
Trong cơn tuyệt vọng, Ngài gọi tôi “Maria”. Vâng chính là Ngài. Không phải là cái xác tôi đang tìm mà là một Đức Giêsu đang sống, sống thực sự. Nhiệm vụ của tôi là bây giờ phải đi loan báo tin mừng này cho tất cả mọi người. Tôi không có quyền giữ lại niềm vui và hạnh phúc cho riêng mình. Chúa muốn mọi người cũng được hạnh phúc như tôi, được chia sẻ niềm hạnh phúc này.

Lời Chúa: 
 (Mc 16, 9-15)
9Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
12Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.
14Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”

Thứ Năm, 20 tháng 4, 2017

Thứ Sáu Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Lời Chúa: 
 Ga 21,1-14
1Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. 2Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3Ông Simôn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. 5Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không." 6Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! " 11Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

Thứ Tư, 19 tháng 4, 2017

Thứ Năm tuần Bát nhật Phục sinh

"Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ"

Nhà văn Julia A. Manhan kể lại rằng: Ngày nọ, có một cậu bé muốn gặp Chúa. Cậu nghe nói rằng, phải qua một cuộc hành trình dài mới đến được nơi Chúa ở. Vì thế, cậu bé chuẩn bị những chiếc bánh ngọt và một hộp 6 lon nước cho vào cái túi nhỏ rồi lên đường.
Khi cậu đi được vào khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà cụ ngồi trong công viên mắt đăm đăm nhìn những con chim bồ câu. Cậu ngồi xuống cạnh bà và mở túi ra. Chưa kịp đưa nước lên uống thì cậu thấy bà lão có vẻ đói bụng. Cậu lấy chiếc bánh mời bà lão. Bà nhận chiếc bánh với đầy vẻ biết ơn và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà đẹp đến nỗi cậu bé muốn được nhìn lại lần nữa. Thế là cậu đưa thêm cho bà lon nước. Bà lại mỉm cười với cậu. Cậu bé rất thích thú.
Hai bà cháu ngồi với nhau ở đó suốt cả buổi chiều, ăn uống và mỉm cười, nhưng không ai nói lời nào.
Trời tối, đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng vừa đi được một bước, cậu quay lại, chạy về phía bà lão và ôm bà. Bà đã tặng lại cậu bé nụ cười đẹp chưa từng thấy.
Một lát sau cậu về đến nhà. Khi cậu bé vừa mở cửa, mẹ cậu đã sửng sốt khi nhìn thấy niềm vui rạng rỡ trên con mình.
Mẹ cậu hỏi:
- Hôm nay có chuyện gì mà con hạnh phúc thế?
Cậu trả lời:
- Con đã ăn bữa trưa với Chúa!
Bà chưa kịp nói gì thì cậu bé thêm:
- Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp mà con chưa từng thấy!
Trong khi đó, bà lão trở về nhà cũng đem theo một niềm hạnh phúc. Con trai bà cụ rất ngạc nhiên khi thấy vẻ bình an thanh thản trên khuôn mặt mẹ, anh hỏi:
- Mẹ ơi, hôm nay con có điều gì làm mẹ hạnh phúc thế?
Bà lão đáp:
- Mẹ ăn bánh trong công viên với Chúa!
Trước khi cậu con trai kịp nói thì bà thêm:
- Con biết không, Chúa trẻ hơn mẹ tưởng nhiều!
   Con người ai cũng mong muốn được hạnh phúc. Nhưng nhiều khi hạnh phúc chỉ như một chiếc bóng. Chúng ta mãi mê chạy theo một chiếc bóng mà quên rằng, niềm vui đích thực, hạnh phúc đích thực lại nằm ngay trong chính tầm tay của chúng ta. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.

Lời Chúa: 
  Lc 24,35-48
35 Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. 36 Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". 37 Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. 38 Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? 39 Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". 40 Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. 41 Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" 42 Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. 43 Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. 44 Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". 45 Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
46 Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. 47 Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. 48 Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cảm nếm được niềm vui vì có Chúa luôn hiện diện với chúng con. Amen.

Thứ Ba, 18 tháng 4, 2017

Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

Trên đường Emmau

 "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông. Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người.

 Có hai môn đệ, nhưng Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ Luca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào của Chúa. Độc giả cũng có thể coi mình là chính môn đệ ấy để được chia sẻ với người môn đệ này những cảm nghiệm thật thú vị trên đường. 

Hai môn đệ này là những người đã có một thời theo Chúa. Thế nhưng, cái chết của Chúa đã khiến họ hoang mang và bỏ cuộc. Họ đang cùng nhau trên đường trở về quê quán của mình. 
Jacques Loew là người phu khuân vác ở bến tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao Động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm anh nảy ra ý định thử đi tìm hiểu điều mà những người Công giáo vẫn tin tưởng là có thực đó là “có một Thiên Chúa”. Anh muốn biết điều đó có thực hay không? Muốn là làm. Anh tìm đến một dòng khổ tu và nói rõ ý định của mình với cha bề trên của dòng. Với nụ cưới thật tươi trên môi, cha bề trên rất cảm động nói với anh những lời này:
- Anh đã đi đúng đường rồi đó, anh cứ tiếp tục đi đi. Anh hãy coi tu viện đây như là nhà của anh.
Rồi cha bề trên giơ tay chỉ nhà nguyện và nói:
- Đây là nhà nguyện, nếu anh muốn xin mời anh vào.
Lúc ấy nhà nguyện đang có Thánh lễ. Jacques Loew đi vào. Anh quì xuống như bao người khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người khác đã thay đổi vị thế, khi ngồi, khi đứng. Đến lúc đã mỏi gối, anh ngồi lên thì lúc đó lại là lúc mọi người khác trong nhà nguyện đều quì sụp xuống vì đó là lúc truyền phép Mình Máu Thánh Chúa.
Đến lúc rước lễ, hầu như tất cả đều lên rước lễ, trừ anh thì cứ ngồi lại tại chỗ. Anh nghĩ thầm trong lòng: Mình thật không giống ai.
Ngồi ngó những người lên rước lễ đi xuống, anh nhận ra có rất nhiều khuôn mặt khác nhau: người học thức, kẻ có địa vị cao ngoài xã hội, và dĩ nhiên cũng có cả những người bình dân nữa. Jacques Loew tự hỏi: Sao những người này mê tín thế? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu kia để làm gì? Họ có điên không?
Nhưng rồi ý tưởng trên đây của Loew đã bị một tư tưởng khác tấn công: không lẽ tất cả những người học thức, có địa vị ngoài xã hội hơn mình, họ lại điên, còn mình thì lại khôn sao? Hay là ngược lại, tôi điên?
Thế rồi, Jacques Loew bắt đầu đi tìm hiểu về phép Thánh Thể với cha bề trên. Sau một thời gian, anh đã tâm sự:
"Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: "Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh". Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới biết là chúng tôi là anh chị em với nhau trong Chúa Kitô. Có những người mà trước đó gặp ở ngoài đường, chúng tôi dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng tôi thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi, bởi chúng tôi cùng tin Tin Mừng, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Chúa Kitô". Sau này Jacques Loew đã trở thành một linh mục. Ngài đã hoạt động rất tốt trong phong trào Linh Mục thợ.

Thứ Hai, 17 tháng 4, 2017

Thứ Ba tuần Bát nhật Phục sinh

Chúa Giêsu đã sống lại Alleluia

Người ta kể lại vào hồi Đức Quốc xã giam giữ những người có đạo, có một người đàn bà rất nổi tiếng tên là Archengette. Bà Archengette bị giam cùng với hàng trăm ngàn người khác. Có lần bà đã kể lại: Một buổi chiều kia, một cô bạn tù ghé vào tai tôi se sẽ hỏi:
- Chị có biết ngày mai là ngày gì không? Mai là lễ Phục Sinh đấy chị ạ.
Tôi ngạc nhiên nói bâng quơ:
- Đã đến lễ Phục Sinh rồi sao?
Lễ Phục Sinh là ngày lễ trọng, và là ngày vui của toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu đã sống lại, để mở cánh cửa cuộc sống trường sinh cho con người, thế mà chúng tôi lại bị giam giữ trong căn nhà tù này, xa cách mọi người thân yêu, cô đơn, đau khổ...Tôi đi đi lại lại trong căn nhà chật hẹp, hôi hám. Đầu óc thì còn đang theo đuổi những ý tưởng vừa mới xuất hiện. Mặt mũi buồn so.
Bỗng tôi nghe thấy có tiếng kêu lớn, phá tan bầu không khí im lặng đang nặng nề đè trên chúng tôi. Tiếng kêu ấy thế này: “Chúa Kitô đã sống lại”.
Tôi kinh ngạc nhìn cô bạn tù. Đôi mắt cô long lanh. Hai hàng giọt lệ đang từ từ chảy ra, để cho chúng lăn trên đôi gò má cao nhô lên giữa khuôn mặt xanh xao gầy ốm của cô. Thế rồi bỗng khuôn mặt ấy tươi hẳn lên.
Tiếp đó từ trong các phòng khác của nhà tù, tôi đều nghe thấy tiếng trả lời, tưởng như tiếng vang vọng không ngừng:
“Chúa Kitô đã sống lại... Chúa Kitô đã sống lại”.
Những tiếng phát ra từ trong các phòng nhà tù đó, đã trở thành một điệp khúc như của một bài ca chiến thắng.
 Bọn lính canh tù bực tức đến tột độ. Gương mặt của chúng hằm hằm giận dữ. Rồi chúng mở cửa phòng chúng tôi đang ở, nhào vào, lôi cô gái bạn tù ốm yếu của chúng tôi đi...
Bốn ngày sau, cô được trả trở về phòng với chúng tôi. Cô bé của chúng tôi thật là đáng thương. Đôi má của cô đã hóp, sau 4 ngày lại càng hóp thêm. Gương mặt xanh như tầu lá. Lúc sau nhờ cô kể lại chúng tôi mới biết, cô đã bị nhốt trong một căn phòng chật hẹp tối tăm và phải nhịn đói suốt 4 ngày nay. Tôi còn nhớ thật rõ lúc chạy ra cửa để dìu cô vào phòng, cô thều thào nói với tôi:
- Chị ơi, em đã loan báo sứ điệp Phục Sinh trong nhà tù này. Tất cả mọi chuyện khác đều không quan trọng.
Nếu ngày xưa đã có những người như Mađalêna, đã có cô bé can đảm dám loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người thì ngày nay cũng phải có những người can đảm như Maria Mađalêna, như cô bé trong nhà tù! Thế giới hôm nay, một thế giới càng ngày càng trở nên xa lạ với Chúa Giêsu đang cần những con người như thế.
 Lạy Chúa, giữa thế giới đầy bận rộn và náo nhiệt này, xin cho chúng con biết lắng tai nghe tiếng Chúa. Xin hãy mở rộng đôi tay còn khép kín của chúng con, để chúng con biết mau mắn thi hành “sứ điệp” Chúa gửi đến cho chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

Lời Chúa: 
  Ga 20,11-18
11 Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, 12 bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. 13 Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" 14 Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. 15 Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?"
Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". 16 Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). 17 Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
18 Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".

Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

“Tin Mừng hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục sinh: Một của các phụ nữ, một của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Phục sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng, tuy lo âu, nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canh, ngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…
Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này…Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo hội”.

Lời Chúa: 
 Mt 28, 8-15
 8Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay. 9 Bỗng Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó." 11Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12Các Thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13và bảo: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. 14Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." 15Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay.

Thứ Tư, 12 tháng 4, 2017

Định Nghĩa Tình Yêu

Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, thường nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều góc độ, tốn rất nhiều giấy mực, để lý giải tình yêu... nhưng có lẽ rất ít người hiểu cho đúng tình yêu là gì.
Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là nhà thơ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:
"Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt..."
Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ công giáo trứ danh, khuyên chúng ta - trong bài "Ðà Lạt trăng mờ" - như sau:
"Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Ðể nghe dưới đáy, nước hồ reo
Ðể nghe tơ liễu rung trong gió
Và để xem Trời giải nghĩa yêu."
"Và để xem Trời giải nghĩa yêu!" Ðúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu."
Chúa Giêsu "giải nghĩa yêu" khi Ngài ngỏ lời với ông Nicôđêmô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Chúa Giêsu cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Ngài nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)
Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi... Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giêsu đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: "Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng... Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau" (Ga 13, 1.4-5).

Thế mới hiểu rằng:
Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là "đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau."
Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con."
Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: "Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."
Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: "Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt" (Ga 11, 50).

Lời Chúa: 
 Ga 13, 1-15
 1Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. 2Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt, ý định nộp Đức Giêsu. 3Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 4nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. 5Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6Vậy, Người đến chỗ ông Simôn Phêrô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" 7Đức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu." 8Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Đức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." 9Ông Simôn Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." 10Đức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" 11Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch." 12Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? 13Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. 15Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

Thứ Ba, 11 tháng 4, 2017

PHỤNG VỤ TUẦN THÁNH 2017


TAM NHẬT VƯỢT QUA & ĐẠI LỄ PHỤC SINH 

I. THỨ NĂM TUẦN THÁNH: 13/4/2017
17giờ 15:  Chuông I    -    17giờ 45:  Chuông II
18 giờ 00: Thánh Lễ Tiệc Ly
* Chầu Mình Thánh Chúa:
·        19 giờ 30 – 20 giờ 00:  Giáo họ Mẹ Vô Nhiễm
·        20 giờ 00 – 20 giờ 30:  Giáo họ Giuse
·        20 giờ 30 – 21 giờ 00:  Giáo họ Mông Triệu
·        21 giờ 00 – 21 giờ 30:  Giáo họ Phêrô Đa
·        21 giờ 30 – 22 giờ 00:  Giáo họ Kitô Vua
 
II. THỨ SÁU TUẦN THÁNH: 14/4/2017
(Không có chuông hiệu)
10 giờ 00:  Đàng Thánh Giá trọng thể.
18 giờ 00: TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU
 
III. THỨ BẢY TUẦN THÁNH: 15/4/2017
04 giờ 30:  Ngắm Dấu Đanh
19 giờ 00: LỄ VỌNG PHỤC SINH
 
IV. CHÚA NHẬT PHỤC SINH: 16/4/2017
·        LỄ I: 05 giờ 15
04giờ 30:  Chuông I    -    05 giờ 00:  Chuông II
·        LỄ II: 17 giờ 00
16 giờ 30:  Chuông I    -   16 giờ 45:  Chuông II
 
Blogger Templates